Trị vì Edward_III_của_Anh

Không sau sau khi lên ngôi, Edward phải đối mặt với những vấn đề xung quanh Roger Mortimer, lúc này là tình nhân của mẹ ông và là người cai trị trên thực tế của Anh quốc. Mortimer sử dụng quyền lực của mình để chiếm đoạt các điền trang và thái ấp, trong khi uy tín của ông ngày càng sụt giảm sau những thất bại trước người Scotland tại Trận Stanhope ParkHiệp ước Edinburgh–Northampton đầy nhục nhã cho người Anh, được kí vào năm 1328.[17] Sự căm thù của nhà vua trẻ đối với vị nhiếp chính ngày càng to. Mortimer biết rằng quan hệ của mình với nhà vua ngày càng bấp bênh và Edward không còn tôn trọng ông nữa. Căng thẳng tăng lên sau khi Edward và Philippa (kết hôn tại York Minster ngày 24 tháng 1, 1328), có con trai đầu lòng vào ngày 15 tháng 6 năm 1330.[18] Cuối cùng, Edward quyết định hành động chống lại Mortimer. Được sự giúp đỡ của người bạn thân William Montagu và một nhóm nhỏ những người trung thành, Edward bắt giữ Mortimer tại Lâu đài Nottingham vào ngày 19 tháng 10 năm 1330. Mortimer sau đó bị hành quyết bằng cách treo cổ và triều đại của Edward III mới thực sự bắt đầu.[19]. Sau khi Mortimer bị hành hình, mẹ của Edward đã bị lưu đày tại lâu đài Rising ở Norfolk nơi có báo cáo là bà đã bị buộc phá thai. Vào ngày sinh nhật thứ 18 của ông, Edward đã hoàn tất việc trả thù và ông đã trở thành người cai trị duy nhất ở Anh quốc.

Tự cai trị

Edward III không hài lòng với hiệp ước được ký trong thời kì nhiếp chính, nhưng việc nối lại chiến tranh với Scotland được tiến hành bởi một nhóm các quý tộc chứ không phải từ lệnh của hoàng gia Anh. Một nhóm những người quyền quý xưng là The Disinherited, xuất thân từ các quý tộc bị mất đất phong ở Scotland sau bản hiệp ước, tiến hành xâm lược Scotland và giành đại thắng ở Trận Dupplin Moor năm 1332.[20] Họ cố gắng lập Edward Balliol lên làm vua Scotland thay thế vị trí của ấu quân David II, nhưng Balliol sớm bị trục xuất và phải tìm kiếm sự giúp đỡ từ Edward III. Nhà vua Anh đáp lời bằng việc gửi quân vây hãm trọng trấn Berwick gần biên giới và đánh bại lực lượng lớn quân giặc tại Trận Halidon Hill.[21] Edward đưa Balliol trở lại ngai vàng và được đền đáp bằng nhiều đất đai ở miền nam Scotland.[22] Nhưng những thắng lợi này không duy trì đwwocj lâu, vì lực lượng trung thành với vua David II nhanh chóng tập hợp lại và kiểm soát được tình hình. Năm 1338, Edward buộc phải đồng ý một thỏa thuận ngừng chiến với người Scotland.[23]

Để đánh dấu cho chủ quyền đối với ngai vàng Anh và Pháp, huy hiệu của Edward có hình ba con sư tử Anh gắn với fleurs-de-lys của Pháp. Kính màu ghép của Anh, c. 1350–1377[24]

Một lý do cho việc Edward thay đổi chính sách với Scotland là căng thẳng ngày càng gia tăng giữa Anh và Pháp. Vì Scotland và France đã an kết minh với nhau, người Anh giờ đây phải đối phó với nguy cơ chiến tranh từ cả hai mặt trận.[25] Người Pháp tiến hành tấn công vào các vị trí then chốt ven biển của Anh, dẫn đến những tin đồn trên khắp nước Anh về một cuộc tổng xâm lược của quân Pháp.[23] Năm 1337, Philippe VI tịch thu các lãnh địa Công quốc Aquitaine và Bá quốc Ponthieu vốn là lãnh địa của vua Anh trên đất Pháp. Thay vì cố gắng tìm kiếm hòa bình bằng cách hạ mình xưng thần với nhà vua Pháp, như vua cha từng làm, Edward quyết định đáp trả bằng cách tự xưng mình là người kế thừa ngai vàng Pháp với tư cách là cháu ngoại của Philippe IV.[26] Người Pháp đối bác bỏ tuyên bố nàu dựa trên các nguyên tắc kế vị theo dòng nam được thiết lập các năm 13161322. Thay vào đó, họ lập em họ của Philippe IV, tức Vua Philippe VI (hậu duệ dòng nam của Hoàng tộc Pháp), mở ra Chiến tranh Trăm năm (xem phổ hệ bên dưới).[27] Những năm đầu của cuộc chiến, chiến lược của Edward là thiết lập liên minh với các vương hầu tại Lục địa. Năm 1338, Ludwig  IV phong cho Edward làm Phó chủ của Thánh chế La Mã và hứa sẽ ủng hộ ông.[28] Cuối năm 1337, Hiệp ước Anh-Bồ Đào Nha 1373 thiết lập liên minh giữa hai nước. Những biện pháp này không mang lại nhiều hiệu quả; chiến thắng quân sự lớn duy nhất trong giai đoạn này của phía Anh là tại Sluys ngày 24 tháng 6 năm 1340, nơi 16.000 binh sĩ và thủy thủ Pháp bị giết, và giúp quân Anh củng cố quyền kiểm soát khu vực eo biển.[29]

Trong khi đó, áp lực tài chính mà vương quốc phải gánh chịu bởi các liên minh đắt tiền của Edward đã dẫn đến sự bất mãn ở quê nhà. Hội đồng chấp chính thất vọng vì các khoản nợ ngày càng lớn, trong khi quốc vương và các tướng ở Lục địa nổi giận vì chính phủ không cung cấp đủ tiền bạc quân nhu.[30] Để đối phó tình hình, ông trở về Luân Đôn mà không báo trước vào ngày 30 tháng 11 năm 1340.[31][32] Nhận thấy tình hình chính trị bất ổn, ông tiến hành thanh trừng một lượng lớn các thượng thư và thẩm phán trong chánh quyền.[33] Những biện pháp này không mang sự ổn định trở lại, và căng thẳng nổ ra giữa nhà vua với John de Stratford, Đại giám mục Canterbury, trong khi những người bà con với Stratford là Robert Stratford Giám mục Chichester và Henry de Stratford bị cách chức bỏ tù.[34] Stratford tuyên bố bằng Edward đã vi phạm luật lãnh địa bằng việc bắt giữ các quan chức trong chánh quyền.[35] Một thỏa thuận hòa giải tạm thời đạt được trong Nghị viện tháng 4 năm 1341. Theo đó Edward buộc phải chấp nhận những hạn chế nghiêm trọng đối với đặc quyền tài chính và hành chính của mình, để đổi lấy một khoản trợ cấp thuế.[36] Đến tháng 10 năm đó, nhà vua đơn phương bác bỏ đạo luật và Tổng Giám mục Stratford bị tẩy chay về mặt chánh trị. Quốc hội tháng 4 buộc nhà vua phải giải trình, nhưng vào thời Trung Cổ, quyền lực của nhà vua dường như không bị giới hạn, và Edward khéo léo lợi dụng điều này.[37]

Tập tin:Edward III Groat.jpgGroat featuring Edward III

Nhà sử học Nicholas Rodger đặt vấn đề về tuyên bố " Quốc vương của biển cả" của Edward III', lập luận rằng không có một Hải quân hoàng gia nào trước thời Henry V (1413–22). Dù cho cái nhìn của Rodger, Vua John đã đầu tư cho một hạm đột hoàng gia và cố gắng thành lập một sở quản lý những con tàu và những người bị bắt. Henry III, người kí vị, tiếp tục công việc này. Mặc dù trên thực tế rằng ông, cũng như những người tiền nhiệm, đã cố gắng phát triển lực lượng hải quân mạnh mẽ và hiệu quả, nhưng những cải cách của họ chỉ là những chánh sách nhất thời. Lực lượng hải quân được lập ra dưới triều Edward III gồm các sĩ quan đứng đầu lần lượt là William de Clewre, Matthew de Torksey, và John de Haytfield với chức danh Thư ký vương thuyền. Sir Robert de Crull là người cuối cùng giữ chức này dưới thời Edward III[38] và cũng là người tại chức lâu nhất.[39] Lực lượng hải quân của Edward trở thành cơ sỏ cho những bước phát triển tiếp theo của Hải quân dưới thời Henry VIII với Council Marine và Navy Board và Board of Admiralty của Charles I. Rodger cũng lập luận rằng phần lớn những năm thế kỉ XIV, người Pháp nắm thế thượng phong, như ở Sluys năm 1340 và, có lẽ, Winchelsea năm 1350.[40] Tuy nhiên, Pháp chưa bao giờ xâm chiếm Anh và Vua Jean II chết khi bị Anh giam giữ. Có thể Hải quân Anh đóng vai trò lớn trong việc này cũng như các vấn đề khác, chẳng hạn như sự trỗi dậy của các lãnh chúa Anglo-Irish và các hành động vi phạm chủ quyền.[41].

Cơ may từ cuộc chiến

Map showing the area (in pink) gained by England through the Treaty of Brétigny

Đầu những năm 1340, chính sách liên minh nước ngoài của Edward ngày càng tỏ ra tốn kém và không đem lại hiệu quả. Những năm tiếp đó quân Anh tham chiến nhiều hơn, bao gồm Chiến tranh Kế vị Breton, nhưng lúc đầu cũng không thu được thành công.[42] Edward bỏ không chi trả khoản nợ 1,365,000 florin mượn từ Florentine, dẫn đến chủ nợ bị phá sản.[43]

Mọi thứ thay đổi từ tháng 7 năm 1346, khi Edward quyết định tiến hành một cuộc tấn công lớn, giong buồm đến Normand với khoảng 15,000 quân.[44] Quân của ông chiếm được thành phố Caen, và hành quân khắp miền bắc Pháp quốc, ròihopoij với đại quân Anh ở Vlaanderen. Ý định ban đầu của Edward không phải là trực diện giao trạnh với người Pháp, nhưng tại Crécy, nằm ở phía bắc sông Somme, ông nhận ra địa hình thuận lợi cho mình và quyết định giao chiến với quân Pháp do Philippe VI cầm đầu.[45] Ngày 26 tháng 8, quân Anh đánh bại quân Pháp với lực lượng đông hơn rất nhiều tại Trận Crécy.[46] Không lâu sau đó, ngày 17 tháng 10, quân Anh đánh bại và bắt giữ Vua David II của Scotland tại Trận Neville's Cross.[47] Với việc biên cương phía bắc đã được bảo đảm, Edward rảnh tay cho chiến sự với người Pháp, vây hãm thị trấn Calais. Đây là cuộc đối đầu có quy mô lớn nhất đối với quân Anh trong suốt chiến tranh Trăm năm, với hơn 35,000 quân tham chiến.[48] Cuộc bao vây bắt đầu từ 4 tháng 9 1346, kéo dài đến khi thành đầu hàng ngày 3 tháng 8 1347.[49]

Edward III đếm số xác chết trong chiến trường Crécy.

Sau sự kiện Calais, những yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát của Edward khiến ông phải nới lỏng cuộc chiến. Năm 1348, Cái chết Đen tràn đến nước Anh, ít nhất 1/3 dân số chết trong thảm họa này.[50] Sự mất mát nguồn nhân lực dẫn đến thiếu lao động nông nghiệp và tình trạng tăng lương.[51] Để đối phó với tình hình ngày một phức tạp, nhà vua và Nghị viện ban hành đã ban hành Pháp lệnh về người làm công (1349) và Điều lệ về người làm công (1351). Những nỗ lực này về lâu dài thì không đem lại hiệu quả tốt, nhưng trong ngắn hạn thì lại có tác dụng rất tích cực.[52] Sau tất cả, bệnh dịch hạch đã không dẫn đến một sự cố toàn diện cho chính phủ và xã hội và số nhân khẩu được phục hồi nhanh chóng.[53] Những thành tựu này có công đóng góp rất lớn của các triều thần như Thủ quỹ William EdingtonPháp quan William de Shareshull.[54]

Đến giữa những năm 1350 quân Anh tiếp tục các cuộc chiến quy mô lớn ở lục địa.[55] Năm 1356, trưởng tử của Edward, Edward, Hoàng tử đen, giành được thắng lợi quan trọng tại Trận Poitiers. Lực lượng Anh ít hơn rất nhiều không chỉ đẩy lui người Pháp mà còn bắt sống được nhà vua Pháp, John II và hoàng tử út của ông ta, Philippe.[56] Sau khi một loạt các chiến thắng, người Anh đã nắm giữ nhiều đất đai ở Pháp, vua Pháp bị giam ở Anh và chính phủ trung ương Pháp đã gần như hoàn toàn sụp đổ.[57] Đã từng có một cuộc tranh luận lịch sử về việc liệu lời tuyên bố của Edward đối với ngai vàng Pháp ban đầu có thật hay không, hay đơn giản là một mưu đồ chính trị nhằm gây áp lực lên chính phủ Pháp.[58] Bất kể mục đích ban đầu là gì đi nữa, thì nước Pháp lúc bấy giờ dường như nằm trong tầm tay Edward. Tuy nhiên chiến dịch năm 1359 nhằm hoàn tất mục tiêu đó, thất bại.[59] Do đó năm 1360, Edward chấp nhận Điều ước Brétigny, theo đó ông từ bỏ yêu sách với ngai vàng nước Pháp nhưng được bảo đảm rằng chủ quyền hoàn toàn đối với các lãnh địa ở Pháp.[60]

Những năm cuối

Trong thời gian đầu của triều đại của ông, Edward đã tỏ ra năng động và thành công, trong những năm sau ông đã trở nên ỳ vì những thất bại quân sự và xung đột chính trị. Các công việc chính trị hằng ngày không thu hút Edward bằng những việc ra chiến trường, do đó, trong thập kỷ 1360 Edward ngày càng dựa vào sự giúp đỡ của các triều thần, đặc biệt là William Wykeham.[61] Như một quý tộc mới nổi, Wykeham được tấn phong làm Quan Chưởng ấn năm 1363 và Đại Pháp quan năm 1367, mặc dù những khó khăn trong sự kết nối chính trị cùng với thiếu kinh nghiệm của ông ta, Quốc.hội đã buộc ông này phải từ chức chưởng ấn vào năm 1371..[62] Càng tạo thêm các khó khăn cho Edward là những cái chết của người mà ông tin cậy nhất, một số do sự tái phát của bệnh dịch hạch từ năm 1361 đến 1362. William Montague, Bá tước Salisbury, đồng minh thân tín của Edward hồi đảo chính 1330, chết sơm svaof năm 1344. William de Clinton, người từng sát cánh với nhà vua tại Nottingham, qua đời năm 1354. Một trong số những Bá tước được tấn phong năm 1337, William de Bohun, Bá tước Northampton, quy tiên 1360, và năm tiếp theo là Henry xứ Grosmont, người được cho là vị tướng được ưa thích nhất của Edward, chết vì dịch hạch.[63] Cái chết của họ khiến cho Quốc hội dần bị các thành viên trẻ chiếm chỗ và trở nên phù hợp các các Hoàng tử hơn là bản thân nhà vua.[64]

Vua Edward III trao Aquitaine cho con trai làn Edward, Hoàng tử đen. Initial letter "E" of miniature, 1390; British Library, London, shelfmark: Cotton MS Nero D VI, f.31

Người con trai thứ hai của nhà vua, Lionel Antwerp, cố gắng để quy phục lực lượng tự trị của các lãnh chúa người Anglo-Ailen ở Ireland. Nhưng chiến dịch đã không thành công, và nó chỉ kéo dài sự chiếm đóng của người Anh theo Điều luật Kilkenny trong năm 1366. Tại Pháp, trong khi đó, trong thập kỷ sau Hiệp ước Brétigny là một trong yên bình tương đối, nhưng trên 8 tháng 4 năm 1364, Jean II đã chết trong giam cầm ở Anh, sau khi không thành công cố gắng để nâng cao tiền chuộc của riêng mình tại nhà. Ông đã được thừa kế bởi nhà vua Charles V mạnh mẽ, người đã tranh thủ được năng lực của vị Nguyên soái đầy tài năng Bertrand du Guesclin. Năm 1369, chiến tranh ở Pháp lại bắt đầu với một chiều hướng và John của xứ Gaunt-người con trai trẻ tuổi của Edward đã được trao trách nhiệm chỉ huy một chiến dịch quân sự. Những nỗ lực này đã không thành công và với Hiệp ước Bruges trong năm 1375 các tài sản lớn của Anh ở Pháp đã bị giảm xuống chỉ còn là các thị trấn ven biển Calais, Bordeaux và Bayonne.

Edward, dần dần trao các trọng trách cầm quân cho các con trai vì lý do tuổi cao sức yếu. Nhị Hoàng tử, Lionel xứ Antwerp, cố gắng để thu phục lực lượng tự trị của các lãnh chúa người Anglo-Irish ở Ireland. Nhưng chiến dịch đã không thành công, và nó chỉ kéo dài sự chiếm đóng của người Anh theo Điều luật Kilkenny trong năm 1366.[65] Tại Pháp, sau một thập kỉ tương đối hòa bình kể từ Điều ước Brétigny, thì đến ngày 8 tháng 4 năm 1364 Jean II băng hà trong nhà lao Anh.[66] Người kế vị là Charles V, và tân vương tranh thủ được sự ủng hộ từ Nguyên soái Bertrand du Guesclin tài ba.[67] Năm 1369, người Pháp tái khởi động cuộc chiến, và Hoàng tử John xứ Gaunt nhận trọng trách dẫn binh. Những nỗ lực này đã không thành công và với Hiệp ước Bruges năm 1375 các lãnh địa của người Anh ở Pháp chỉ còn là các thị trấn ven biển Calais, Bordeaux, và Bayonne.[68]

Thất bại quân sự ở nước ngoài và áp lực tài chính cho các chiến dịch quân sự đã dẫn đến sự bất mãn chính trị trong nước. Mọi viện lên đến đỉnh điểm tại Nghị viện năm 1376, được biết đến với tên gọi Nghị viện Tốt. Quốc hội ban đầu được triệu tập để bàn việc ban hành các loại thuế mới, nhưng Hạ viện nắm lấy cơ hội để chất vấn các vấn đề cụ thể. Đặc biệt, những lời chỉ trích đã được nhắm vào một số cố vấn thân cận nhất của nhà vua như Cung vụ Đại thần William LatimerCung sự đại thần John Neville, họ đều bị sa thải khỏi chức tước.[69] Tình nhân của Edward, Alice Perrers, được coi như nắm quá nhiều quyền lực so với vị vua già, đã bị đuổi khỏi triều đình.[70][71] Tuy nhiên đối thủ thực sự của Quốc hội, cầm đầu là các Đại quý tộc hùng mạnh như Wykeham và Edmund de Mortimer, Bá tước xứ March, lại là John xứ Gaunt. Cả nhà vua và Hắc Thái tử vào thời gian này mất khả năng điều hành triều chính do bệnh tật, Gaunt do đó là người nhiếp chính trong triều đình[72] Gaunt buộc phải nhượng bộ những đòi hỏi của Nghị việnm nhưng tại kì họp tiếp theo, năm 1377, phần lớn thành tựu của Nghị viện Tốt bị đảo ngược.[73]

Tuy nhiên bản thân Edward đã không làm gì nhiều trong thời kỳ này, khoảng sau năm 1375, ông chỉ còn đóng một vai trò hạn chế trong chính phủ. Khoảng 29 tháng 9, 1376 ông bị bệnh và bị áp xe (có tin đồn là ông bị bệnh lậu). Sau một thời gian ngắn hồi phục vào tháng 2 năm 1377, nhà vua giá băng sau một cơn đột quỵ tại Sheen, ngày 21 tháng 6[74]. Người kế vị ông là trưởng tôn mới 10 tuổi, Vua Richard II, tức con trai của Hắc Thái tử, vì ông này đã qua đời trước đó vào ngày 8 tháng 6 năm 1376[75].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Edward_III_của_Anh http://www.fmg.ac/Projects/MedLands/ENGLAND,%20Kin... http://www.oup.com/oxforddnb/info/freeodnb/librari... http://www.fordham.edu/halsall/seth/ordinance-labo... http://www.fordham.edu/halsall/seth/statute-labour... http://www.fordham.edu/halsall/source/1376goodparl... //dx.doi.org/10.1016%2FS0304-4181(97)00017-1 //dx.doi.org/10.1086%2F385897 //dx.doi.org/10.1093%2FEHR%2FCXII.448.856 //dx.doi.org/10.1093%2Fehr%2FCVIII.CCCCXXIX.842 //dx.doi.org/10.1093%2Fehr%2FXLV.CLXXX.623